I. Entity Bean:
- Một đối tượng của dữ liệu bền vững được duy trì trong một lưu trữ dữ liệu lâu dài như một cơ sở dữ liệu. Một khóa chính xác định mỗi thể hiện của nó.
- Đại diện cho dữ liệu một cách rõ ràng hoặc sưu tập dữ liệu, chẳng hạn như một hàng trong một cơ sở dữ liệu quan hệ. phương pháp đậu thực thể cung cấp các thủ tục cho hành động trên dữ liệu đại diện của hạt cà phê. Một entity bean là dai dẳng và tồn tại miễn là dữ liệu của nó vẫn còn trong cơ sở dữ liệu.
- Entity bean có thể được tạo ra trong hai cách: Bằng hành động trực tiếp của Client, trong đó phương thức create() được gọi là giao diện home của bean, hoặc bởi một số hành động khác mà thêm dữ liệu vào cơ sở dữ liệu. Trong thực tế, trong một môi trường với dữ liệu kế thừa, các đối tượng entity có thể tồn tại trước EJB được triển khai.
- Thực hiện một trong hai. Trong trường hợp bean-managed persistence, người thực hiện của entity bean dự trữ và lấy các thông tin được quản lý bởi bean thông qua gọi trực tiếp cơ sở dữ liệu. Bean có thể sử dụng một trong hai Java Database Connectivity (JDBC) hoặc SQL-Java (SQLJ) cho phương thức này. Tuy nhiên, phương thức này khó khăn hơn. Trong trường hợp container-managed persistence, các nhà cung cấp trình chứa có thể thực hiện truy cập vào cơ sở dữ liệu sử dụng các API một cách chuẩn. Nó có thể cung cấp công cụ cho biến cá thể bản đồ của entity bean để gọi đến một cơ sở dữ liệu nằm bên dưới. Cách tiếp cận này làm cho nó dễ dàng hơn để sử dụng entity bean với cơ sở dữ liệu khác nhau.
II. Session bean:
- Session bean bao bọc business logic có thể được viện dẫn lập trình bởi một client thông qua local, remote hoặc dịch vụ web. Để truy cập vào một ứng dụng được triển khai trên các máy chủ, client gọi phương thức session bean. Session bean thực hiện công trình cho client của mình, che chắn nó bằng cách thực thi các business task bên trong máy chủ.
- Có 2 loại session bean:
- Stateful: Các trạng thái của một đối tượng bao gồm các giá trị của các biến cá thể của nó. Các biến này đại diện cho trạng thái của một client/bean session duy nhất. Bởi vì các client tương tác ("đàm phán") với bean của nó, trạng thái này thường được gọi là trạng thái đàm thoại. Như tên gọi của nó cho thấy, một session bean là tương tự như một phiên tương tác. Một session bean không được tiết lộ, nó có thể chỉ có một client, trong cùng một cách mà một phiên tương tác có thể chỉ có một người sử dụng. Khi client chấm dứt, sesion bean của nó cũng có thể chấm dứt và không còn liên kết nữa. Các trạng thái được duy trì trong suốt thời gian của client/bean session. Nếu client loại bỏ bean, session sẽ chấm dứt và trạng thái này sẽ biến mất.
- Stateless: Một stateless session bean không duy trì một trạng thái đàm thoại với client. Khi một client gọi các phương thức của một session bean phi trạng thái, biến cá thể của bean có thể chứa một trạng thái cụ thể tới client kia nhưng chỉ trong thời gian của sự cầu khẩn. Khi phương pháp này được hoàn thành, trạng thái client cụ thể không nên được giữ lại. Client có thể, tuy nhiên, thay đổi trạng thái của các biến cá thể trong session bean phi trạng thái gộp chung, và trạng thái này được giữ qua các dẫn chứng tiếp theo của session bean phi trạng thái gộp chung. Bởi vì chúng có thể hỗ trợ nhiều client, session bean phi trạng thái có thể cung cấp khả năng mở rộng tốt hơn cho các ứng dụng mà đòi hỏi phải có một số lượng lớn của client. Thông thường, một ứng dụng đòi hỏi ít phi trạng thái hơn trạng thái để hỗ trợ cùng một số client. Một session bean phi trạng thái có thể thực hiện một dịch vụ web, nhưng session bean trạng thái không thể thực hiện.
III. Message-Driven bean:
- Nó là một bean doanh nghiệp mà cho phép các ứng dụng Java EE để xử lý các thông điệp không đồng bộ. Đây là loại đậu thường đóng vai trò như một JMS. Các thông điệp có thể được gửi bởi bất cứ thành phần Java EE hoặc bởi một ứng dụng JMS hay hệ thống mà không sử dụng công nghệ Java EE. Message-driven beans có thể xử lý JMS hay các loại thông điệp khác.
- Session bean cho phép bạn gửi thông điệp JMS và nhận chúng nhưng không đồng bộ. Để tránh gõ lên các nguồn tài nguyên máy chủ, không sử dụng ngăn chặn đồng bộ nhận trong một thành phần ở phía máy chủ. Nói chung, các thông điệp JMS không nên được gửi hoặc nhận được đồng bộ. Để nhận tin nhắn không đồng bộ, nên sử dụng message-driven bean.
IV. Web Service:
- Bất cứ phần mềm nào có sẵn trên internet và sử dụng một hệ thống thông điệp XML một cách tiêu chuẩn. XML được sử dụng để mã hóa tất cả các thông tin liên lạc với dịch vụ web.
- Dịch vụ Web có thể được mô tả, công bố, đặt hoặc viện dẫn qua mạng để tạo ra sản phẩm, quy trình, và chuỗi cung ứng và được xây dựng dựa trên các chuẩn mở như TCP/IP, HTTP, Java, HTML, XML. Các ứng dụng này có thể nằm trong cục bộ hoặc dựa trên web.
- Hệ thống trao đổi thông tin dựa trên XML sử dụng Internet để trực tiếp tương tác ứng dụng với ứng dụng. Những hệ thống này có thể bao gồm các chương trình, đối tượng, thông điệp, hoặc tài liệu.
Tập hợp các giao thức mở và các tiêu chuẩn được sử dụng để trao đổi dữ liệu giữa các ứng dụng hoặc hệ thống. Phần mềm ứng dụng viết bằng ngôn ngữ lập trình khác nhau và chạy trên nền tảng khác nhau có thể sử dụng dịch vụ web để trao đổi dữ liệu qua mạng máy tính cũng như Internet theo một cách tương tự với quá trình liên lạc trên một máy tính duy nhất. Khả năng tương tác này là do việc sử dụng các tiêu chuẩn mở.
- Nền tảng dịch vụ web cơ bản là XML và HTTP. Tất cả các dịch vụ web chuẩn trong việc sử dụng qua các thành phần sau: SOAP (Simple Object Access Protocol), UDDI (Universal Description, Discovery and Inegration), WSDL (Web Services Description Language).
- Cho phép truyền thông giữa các ứng dụng khác nhau bằng cách sử dụng các tiêu chuẩn mở như HTML, XML, WSDL, và SOAP. Một dịch vụ web có sự hỗ trợ của: XML để gắn thẻ dữ liệu, SOAP để chuyển tải một thông điệp, WSDL để mô tả sự sẵn có của các dịch vụ đó.
- Các bước để thực hiện hoạt động này như sau:
- Các chương trình client kết hợp với thông tin đăng ký tài khoản vào một thông điệp SOAP.
- Thông điệp SOAP này được gửi đến các dịch vụ web như thân thể của HTTP POST request.
- Các dịch vụ web giải nén SOAP request và chuyển đổi nó thành một lệnh mà ứng dụng có thể hiểu được.
- Các ứng dụng xử lý thông tin cần thiết và đáp ứng với một số tài khoản mới duy nhất cho khách hàng đó.
- Tiếp theo, các dịch vụ web bao bì response vào một thông điệp SOAP, mà nó sẽ gửi lại cho các chương trình client để đáp ứng với yêu cầu HTTP của nó.
- Các chương trình client giải nén thông điệp SOAP để có được những kết quả của quá trình đăng ký tài khoản.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét